Cộng hòa Dân chủ Afghanistan Chiến_tranh_Xô–Afghanistan_(1979–1989)

Các phe phái bên trong PDPA

Sau cuộc cách mạng, Taraki nắm chức Tổng thống, Thủ tướng và Tổng thư ký PDPA. Thực tế, chính phủ bị chia rẽ theo các phe phái trong đảng, với Tổng thống Taraki và Phó thủ tướng Hafizullah Amin thuộc phái Khalq chống lại các lãnh đạo Parcham như Babrak Karmal và Mohammad Najibullah. Những sự xung đột dẫn tới các hành động trục xuất, thanh trừng và hành quyết bên trong PDPA.

Trong 18 tháng cầm quyền đầu tiên, PDPA áp dụng các biện pháp cải cách theo đường lối Mác xít. Các nghị định quy định những thay đổi trong phong tục cưới hỏi và cải cách ruộng đất bị dân chúng phản đối mạnh mẽ vì chúng đi ngược truyền thống và Hồi giáo. Hàng ngàn thành viên giai cấp cao truyền thống, tôn giáo và giới trí thức bị hành quyết.

Tới giữa năm 1978, một cuộc nổi dậy bắt đầu tại vùng Nuristan phía đông Afghanistan và nội chiến lan tràn khắp nước. Tháng 9 năm 1979, Phó thủ tướng Afghanistan Hafizullah Amin lên nắm quyền sau một cuộc đảo chính nội bộ, dẫn tới cái chết của Tổng thống Taraki. Hơn hai tháng hỗn loạn khiến chế độ của Amin lung lay khi ông quay sang chống lại các đối thủ bên trong PDPA và cuộc nổi dậy ngày càng nghiêm trọng.

Quan hệ Liên Xô-Afghanistan

Sau thắng lợi của Cách mạng Nga, ngay từ năm 1919, chính phủ Liên Xô đã cung cấp các khoản viện trợ không hoàn lại cho Afghanistan dưới hình thức hàng triệu rúp vàng, vũ khí cầm tay, đạn dược và một số máy bay để hỗ trợ cuộc kháng chiến của người Afghanistan chống lại quân đội Anh.

Năm 1924, Liên bang Xô viết một lần nữa lại cung cấp viện trợ quân sự cho vương quốc Afghanistan. Họ cung cấp các loại vũ khí cầm tay và máy bay cùng lúc tiến hành huấn luyện tại Tashkent cho các sĩ quan tham mưu trong Quân đội Afghanistan. Quan hệ quân sự giữa Liên Xô và vương quốc Afghanistan bắt đầu phát triển từ năm 1956 khi hai nước ký kết một thỏa thuận khác. Từ đó Bộ Quốc phòng Liên Xô chịu trách nhiệm huấn luyện các sĩ quan tham mưu cho Afghanistan.

Năm 1972, tới 100 cố vấn và chuyên gia kỹ thuật Liên Xô được gửi tới Afghanistan để huấn luyện các lực lượng vũ trang nước này. Tháng 5 năm 1978, hai chính phủ ký kết một thỏa thuận quốc tế khác, gửi 400 cố vấn quân sự Liên Xô tới Cộng hòa Dân chủ Afghanistan.

Tháng 12 năm 1978, MoskvaKabul ký một hiệp ước hữu nghị và hợp tác song phương cho phép quân đội Liên Xô triển khai trong trường hợp có sự yêu cầu từ phía Cộng hòa Dân chủ Afghanistan. Viện trợ quân sự Liên Xô gia tăng và chế độ PDPA dần lệ thuộc vào các thiết bị quân sự và cố vấn Liên Xô.

Khi Afghanistan rơi vào tình trạng bất ổn với những cuộc tấn công từ phía quân nổi dậy được nước ngoài viện trợ[cần dẫn nguồn], Liên bang Xô viết đã triển khai Quân đoàn 40 theo yêu cầu chính thức của chính phủ Cộng hòa Dân chủ Afghanistan Tập đoàn quân 40(40th Army - Army với nghĩa là 1 hình thức biên chế là 1 tập đoàn quân, không phải quân đoàn), dưới sự chỉ huy của Nguyên soái Sergei Leonidovich Sokolov, gồm 3 sư đoàn pháo cơ giới, 1 sư đoàn không quân, một lữ đoàn tấn công, hai lữ đoàn pháo độc lập và 5 trung đoàn pháo cơ giới riêng biệt. Tổng cộng, lực lượng Liên Xô gồm khoảng 1.800 chiếc xe tăng T-62, 80.000 người và 2.000 Phương tiện Thiết giáp Chiến đấu (AFV).

Chính phủ Afghanistan (thân Liên Xô) nhiều lần yêu cầu các lực lượng Liên Xô triển khai tại nước này trong mùa xuân và mùa hè năm 1979. Họ hy vọng quân đội Liên Xô sẽ giúp tăng cường an ninh và gia tăng tính hiệu quả của cuộc chiến chống quân Mujahideen. Ngày 14 tháng 4 chính phủ Afghanistan yêu cầu Liên bang Xô viết gửi 15 tới 20 máy bay trực thăng cùng phi hành đoàn tới Afghanistan, vào ngày 16 tháng 6 chính phủ Liên Xô đáp ứng và gửi 1 biệt đội xe tăng, xe thiết giáp (BMP) cùng binh lính tới bảo vệ chính phủ Afghanistan tại Kabul và trấn đóng ở phi trường Bagram và Shindand.

Đáp ứng yêu cầu này, 1 tiểu đoàn không quân, dưới sự chỉ huy của Trung tá A. Lomakin, đã tới phi trường Bagram ngày 7 tháng 7. Họ tới chỉ với tư cách các chuyên gia kỹ thuật, không mang theo vũ khí chiến đấu và hoạt động như đội cận vệ cho Taraki. Lính dù trực tiếp thuộc quyền chỉ huy của cố vấn quân sự Liên Xô cao cấp và không can thiệp vào chính trị Afghanistan.

Sau một tháng, những yêu cầu của Cộng hòa Dân chủ Afghanistan không còn đơn giản chỉ là các chi đội riêng biệt nữa, mà là nhiều trung đoàn và các đơn vị đông đảo. Ngày 19 tháng 7, chính phủ Afghanistan yêu cầu Liên Xô gửi 2 sư đoàn pháo cơ giới tới Afghanistan. Ngày hôm sau, họ tiếp tục yêu cầu 1 sư đoàn không quân. Trong nhiều tháng sau đó Afghanistan liên tục nhắc lại yêu cầu cho tới tận tháng 12 năm 1979. Tuy nhiên, chính phủ Xô viết đã không vội vã đáp ứng chúng.

Sự khởi đầu của tình trạng hỗn loạn

Tháng 6 năm 1975, những chiến binh đảng Hồi giáo Jamiat tìm cách lật đổ chính phủ quân chủ của Thủ tướng Daoud. Họ khởi động phong trào phản kháng tại thung lũng Panjshir, khoảng 100 kilômét phía bắc Kabul, và tại một số tỉnh khác trong nước. Tuy nhiên, các lực lượng chính phủ dễ dàng đàn áp và một số lớn nổi dậy đã phải chạy tị nạn tại Pakistan nơi họ nhận được sự hỗ trợ của chính phủ của Thủ tướng Zulfikar Ali Bhutto, chính phủ Pakistan từng lo lắng trước nỗ lực hồi sinh vấn đề Pashtunistan của Daoud[36].

Cuộc nổi dậy bắt đầu trở thành nghiêm trọng từ năm 1978, sau một loạt những sáng kiến cải cách của chính phủ của Tổng thống Taraki Cộng hòa Dân chủ Afghanistan với mục tiêu "nhổ rễ chế độ phong kiến" trong xã hội Afghanistan[37]. Những biện pháp cải cách đó mang lại một số thay đổi tiến bộ, nhưng chúng được thực hiện theo cách thức tàn bạo và vụng về[38]. Xã hội nông thôn Afghanistan phần lớn vẫn tuân theo truyền thống, và những cuộc cải cách ruộng đất đang đe dọa những nền móng của nó; tương tự việc cải cách giáo dục và tăng quyền tự do cho phụ nữ bị coi là hành động tấn công Đạo Hồi. Vì thế, sự phản kháng chống lại những cuộc cải cách mang đầy tính bạo lực, và phần lớn đất nước dễ dàng rơi vào tay quân nổi dậy. Cuộc nổi dậy bắt đầu từ tháng 10 bên trong các bộ lạc Nuristani tại thung lũng Kunar, và nhanh chóng lan tràn tới các bộ nhóm sắc tộc khác, gồm cả cộng đồng đa số người Pashtun. Tình trạng đào ngũ, tinh thần chiến đấu thấp trong Quân đội Cộng hòa Dân chủ Afghanistan cho thấy họ không có khả năng dẹp yên cuộc nổi dậy. Tới mùa xuân năm 1979, 24 trong số 28 tỉnh đã bùng phát bạo lực[39]. Quân nổi dậy bắt đầu chiếm các thành phố: tháng 3 năm 1979 tại Herat quân lính Afghanistan dưới sự chỉ huy của Ismail Khan đã làm binh biến và thảm sát khoảng 100 cố vấn Liên Xô. PDPA trả thù bằng một chiến dịch ném bom giết chết 24.000 người dân trong thành phố[40]. Dù đã áp dụng những biện pháp quyết liệt đó, tới cuối năm 1980, trong số hơn 90.000 binh sĩ, hơn một nửa hoặc đã đảo ngũ hay gia nhập phe nổi dậy[41].

Tương tự nhiều phong trào chống cộng ở thời điểm đó, quân phiến loạn nhanh chóng có được sự ủng hộ từ phía Hoa Kỳ. Như cựu giám đốc CIA và Bộ trưởng Quốc phòng hiện nay Robert Gates đã viết trong cuốn hồi ký From the Shadows (Từ những bóng tối), các cơ quan tình báo Mỹ đã bắt đầu giúp đỡ phe đối lập tại Afghanistan 6 tháng trước khi quân đội Liên Xô triển khai. Ngày 3 tháng 7 năm 1979, Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter đã ký một chỉ thị cho phép CIA tiến hành các chiến dịch tuyên truyền bí mật chống lại chính quyền cộng sản thân Liên Xô.[cần dẫn nguồn]

Cố vấn của Tổng thống Hoa Kỳ Carter là Zbigniew Brzezinski đã viết "Theo lịch sử chính thức, CIA đã bắt đầu giúp Mujahadeen từ năm 1980, có nghĩa sau khi quân đội Liên Xô tiến vào Afghanistan ngày 24 tháng 12 năm 1979. Trên thực tế, hiện vẫn chưa được giải mật, hoàn toàn trái ngược." Chính Brzezinski đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc hoạch định chính sách của Mỹ, và thậm chí cả Mujahideen cũng không được biết tới, chính sách này chính là một phần trong chiến lược "xui khiến sự can thiệp quân sự của Liên Xô." Trong một cuộc phỏng vấn năm 1998 với tờ Le Nouvel Observateur, Brzezinski nhớ lại:

"Chiến dịch bí mật đó là một ý tưởng tuyệt vời. Nó xui khiến người Liên Xô tiến vào cái bẫy Afghanistan..." [...]" Ngày người Liên Xô chính thức tràn qua biên giới, tôi đã viết cho tổng thống Carter. Hiện chúng ta đã có cơ hội để trao cho Liên bang Xô viết cuộc Chiến tranh Việt Nam của họ."[42]

Tổng thống Mỹ Jimmy Carter đã rất ngạc nhiên trước cuộc đổ bộ của Liên Xô, nguyên nhân đến từ sự đồng thuận của cộng đồng tình báo Hoa Kỳ trong suốt hai năm 1978 và 1979 là Moskva sẽ không can thiệp vào việc ngay cả khi có vẻ như chính phủ Khalq sắp sửa sự sụp đổ. Thực tế, nhật ký của Carter từ tháng 11 năm 1979 cho đến khi cuộc tấn công của Liên Xô vào cuối tháng 12 diễn ra chỉ có hai tài liệu tham khảo ngắn về Afghanistan, và thay vào đó họ đang bận tâm với cuộc khủng hoảng con tin đang diễn ra ở Iran.[43] Ở phương Tây, chiến dịch quân sự của Liên Xô ở Afghanistan đã được coi là một mối đe dọa đối với an ninh toàn cầu và nguồn cung dầu mỏ của Vịnh Ba Tư.[44]